Trong suốt hơn 4 thập kỷ qua, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã lựa chọn, công nhận và quyết định vinh danh 6 Danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam. Những Danh nhân này đều là những người tài giỏi, kiệt xuất, là những nhà văn, nhà thơ lớn trong lịch sử văn học, lịch sử dân tộc của nước nhà. Vậy 6 danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam gồm những ai? Cùng đồ đồng Thiên Phúc cùng tìm hiểu, khám phá chi tiết ngay trong bài viết dưới đây nhé!
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, vị danh nhân văn hóa kiệt xuất
Đối với người dân Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng vĩ đại, vị anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là một nhà văn hóa kiệt xuất, một nhà báo, nhà văn, nhà thơ lớn của nước nhà.
Vào ngày 2/2/1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, UNESCO đã công nhận Người là danh nhân văn hóa thế giới của Việt Nam. Trong nghị quyết, UNESCO có ghi rằng “chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất”.
Thành tựu văn học của chủ tịch Hồ Chí Minh là nhiều những tác phẩm được viết bằng ba ngôn ngữ Việt, Hán, Pháp gồm có văn chính luận: đường cách mệnh, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, di chúc,... Về thơ ca, Bác có hơn 250 bài, nổi bật như: nhật kí trong tù, bài tuyên truyền, cổ động giai đoạn trước Tổng khởi nghĩa như diễn ca dân ta phải biết sử ta, ca sợi chỉ, ca du kích, ca dân cày, ca binh lính, cá thiếu nhi, ca công nhân,... cùng những bài thơ chúc Tết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa, nhà văn, nhà báo, nhà thơ lớn của đất nước và thế giới. Sự nghiệp văn học của Người rất phong phú, đa dạng về thể loại, đặc sắc về phong cách sáng tạo.
Cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh trọn vẹn vì nước, vì dân, một tâm hồn cao đẹp và sự nghiệp văn học lớn lao về tư tưởng, sự linh hoạt trong bút pháp, đa dạng về thể loại và đặc sắc về phong cách sáng tác. Bắt nguồn từ lòng yêu nước, cốt cách của một nghệ sĩ lớn và một nhà tri thức văn hóa vĩ đại, những tác phẩm của bác được dùng để tuyên truyền, thức tỉnh đồng bào, kêu gọi lòng yêu nước, cổ vũ tinh thần đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho tốt quốc. Có thể nói, những tác phẩm của người đã trở thành vũ khí sắc bén, hiệu quả để cổ vũ tinh thần kháng chiến, lòng yêu nước và tự tôn của cả dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi (1390-1442) - vị anh hùng, danh nhân văn hóa kiệt xuất
Nguyễn Trãi (1390-1442), hiệu Ức Trai, quê gốc Hải Dương, sinh ra trong một gia đình có truyền thống nhiều đời làm quan. Ông sinh ra trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, lên 8 tuổi mẹ qua đời, ông về Côn Sơn ở với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi đã theo cha về sống ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội.
Nguyễn Trãi nổi tiếng là một người học rộng, biết nhiều, tài giỏi hơn người. Năm 20 tuổi, ông đỗ thái học sinh (Tiến sĩ), và làm quan dưới thời nhà Hồ. Vào năm 1407, nhà Minh mang quân sang xâm lược nước ta, cha ông Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa sang Trung Quốc, khi đó, Nguyễn Trãi cùng em trai theo để chăm sóc cha.
Dưới lời khuyên răn của cha, Nguyễn Trãi đã trở về nước để tìm cách báo thù. Khi vào Thanh Hóa, Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi, dâng lên kế sách Bình Ngô và được Lê Lợi vô cùng trọng dụng. Khi ấy, Nguyễn Trãi dã cùng Lê Lợi dấy lên khởi nghĩa Lam Sơn, đánh bại quân Minh, giành lại độc lập tự do cho đất nước vào năm 1427. Nguyễn Trãi đã viết tác phẩm mang tính lịch sử Bình Ngô đại cáo, nhằm tổng kết chiến thắng vẻ vang này.
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị gia, nhà quân sự, ngoại giao, đồng thời cũng là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, sáng tạo, cốt cách ngay thẳng, cương trực, hoài bào và dũng cảm đưa ra đường lối đổi mới giúp đất nước phát triển.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi có cả văn chính luận và thơ ca, khảo cứu lịch sử và nghiên cứu địa lí. Một số tác phẩm nổi bật của ông như là: Ức trai thi tập viết bằng chữ Hán, Quốc âm thi tập viết bằng chữ Nôm. Những bài thơ chữ Hán, chữ Nôm của ông được được viết theo thể Luật Hàn.
Tuy là một người kiệt xuất là thế, cống hiến và là con người ra sức chèo lái con thuyền của nhà lê đi đúng đường chính nghĩa. Nhưng tài năng, sự đức độ của ông lại bị nhiều kẻ nịnh thần ghen ghét. Nhân sự vụ Lê Thái Tông chết đột ngột ở Lệ Chi Viên, gian thân đã vu cho ông giết hại vua nên khép tội chu di tam tộc. Tuy nhiên, vào năm 1464 vua Lê Thánh Tông đã giải oan cho Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi là một người tài năng kiệt xuất, một người cống hiến hết mình trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn có giá trị nhưng lại phải chịu tai họa khốc liệt.
Vào năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Du (1765-1820) - đại thi học dân tộc
Nguyễn Du (1765-1820) tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Than sinh ngày là tể tướng nhà Lê, Nguyễn Nghiễm, mẹ là Trần Thị Tâm, vợ thế 3 của Nguyễn Nghiễm, quê ở Bắc Ninh. Nguyễn Du sinh ra tại đất Thanh Oai, Hà Nội ngày nay, mồ côi cha từ lúc lên 10, mồ côi mẹ khi lên 13 tuổi. Dù là con của quan đại thần, nhưng Nguyễn Du có một cuộc sống vất vả, nhất là 10 năm về nhà anh vợ ở Thái Bình sống. Sau khi bố vợ mất, con trai lớn mất, Nguyễn Du đưa con nhỏ là Nguyễn Tứ về Tiên Điền thì dinh cơ của ca đã tan hoang, anh em cũng chia rẽ đôi ngả.
Sự nghiệp làm quan của Nguyễn Du cũng vô cùng gian nan, trắc trở. Khi Gia Long lên làm vua, Nguyễn Du được bổ chức làm tri huyện Phù Dung phủ Khoái Châu, rồi phủ Thường Tính cùng trấn Sơn Nam (Hà Đông). Vào năm 1803, cùng phái bộ nghênh tiếp sứ thần Nhà Thanh sang để sắc phong vua Gia Long. Nguyễn Du từng cáo bệnh về quê, sau đó được thăng chức Đông Các Đại học sĩ, làm cai bộ tỉnh Quảng Bình. Vào năm 1812, Nguyễn Du cáo nghỉ về quê dựng mộ cho anh là Nguyễn Lễ. Năm 1813, ông được triệu về kinh nhận chức Đề điệu trường thi Quảng Nam. Sau khi vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, năm 1820, Nguyễn Du cũng qua đời vì bị bệnh.
Sự nghiệp văn chương của đại thi hào Nguyễn Du rất đồ sộ, có nhiều tác phẩm bất hủ viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán gồm: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Thơ Nôm có truyện Kiều. Văn tế thập loại chúng sinh, văn tế sống Trường Lưu mỹ nữ,...
Bên cạnh tư cách là một nhà thơ, Nguyễn Du còn là một danh nhân có tinh thần dân tộc, tình yêu mãnh liệt với tiếng mẹ đẻ. Ông đã dũng cảm vượt qua rào cản nặng nề hàng trăm năm của Hán ngữ, để sử dụng Việt văn trong sáng tác.
Vào ngày 25/10/2015, Nguyễn Du được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới.
Chu Văn An (1292-1370) - người thầy vĩ đại, nhà giáo lỗi lạc mọi thời đại
Chu Văn An (1292-1370) tên thật là Chu An, hiệu Tiều Ẩn, quê ở Quang Liệt, huyện Thanh Đàm nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội.
Thuở nhỏ, ông là một người sáng dạ, ham học. Sau khi đỗ Thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học ở Cung Hoàng. Đây là trường tư thục đầu tiên trong lịch sử giáo dục của nước nhà. Học trò của thầy Chu Văn An không phân biệt giàu hay nghèo, tuổi tác.
Chu Văn An soạn 10 quyển giáo trình Nho học Tứ thư thuyết ước theo bộ sách Tứ thư của Chu Hy đời Tống. Quan điểm và triết lý giáo dục của bộ giáo trình này là vì con người, giáo dục không phân biệt giàu nghèo. Ông có nhiều học trò đạt thành tựu lớn như Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh,...
Năm 1320, vua Trần Nghệ Tông mời ông ra làm quan, ông từ chối. Đến thời vua Trần Minh Tông, triệu ông ra làm tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, đồng thời cũng là thầy dạy cho thái tử. Năm 1336, Trần Dụ Tông lên ngôi khi mới 8 tuổi, Minh Tông làm Thái Thượng Hoàng, khi đó cho tới năm 1400 là giai đoạn nhà Trần sa sút, tha hóa và đổ nát.
Khi còn làm ở Quốc Tử Giám, Chu Văn An đã dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần, gây chấn động triều đình. Khi ấy, vua Trần Dụ Tông không nghe, vì thế ông từ quan về ở ẩn tiếp tục dạy học, sau đó qua đời vào năm 1370.
Tuy vừa dạy học vừa sáng tác, những sự nghiệp văn học của Chu Văn An cũng rất đồ sộ. Ông có nhiều tác phẩm quý như: thất trảm sớ, tập thơ đường luật quốc âm thi tập, tiều ẩn thi tập, các tác phẩm Miết trì, Tiên Du sơn tùng kính, Nguyệt tịch bộ, Giang Đình tác,...
Vào ngày 7/11/2019, Đại hội đồng UNESCO tại Pháp quyết định vinh danh Chu Văn An là danh nhân văn hóa thế giới.
Hồ Xuân Hương (1772-1822) - nhà thơ nữ cá tính mạnh mẽ mà không kém phần sâu lắng
Hồ Xuân Hương (1772-1822) sinh ra trong thời Lê - Trịnh, quê xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Bố của Hồ Xuân Hương là Hồ Phi Diễn, một vị quan đại thần đương thời. Cuộc đời của Hồ Xuân Hương vô cùng éo le, hai lần đi lấy chồng đều làm lẽ, cuối cùng vẫn cô đơn. Hồ Xuân Hương từng có nhà riêng bên Hồ tây mang tên Cổ Nguyệt Đường và giao lưu với nhiều danh sĩ khác.
Sự nghiệp văn chương của Hồ Xuân Hương có rất nhiều bài thơ viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Toàn bộ các tác phẩm đều theo thể Đường luật thất ngôn bát cú và tứ tuyệt. Những tác phẩm nổi tiếng của bà như: bà lang khóc chồng, Bạch Đằng giang tạm biệt, Bánh trôi nước, Giễu ông đồ, vịnh cái quạt 1, cái quạt 2,...
Là một nhà thơ nữ, sống dưới thời phong kiến thối nát, bệnh hoạn, thơ của Hồ Xuân Hương mang âm hưởng vừa thanh vừa tục. Nhân vật phản ảnh cuộc đời người phụ nữ bất hạnh, những kẻ vua chúa, quan lại, thư sinh, những kẻ tự xưng là “hiền nhân quân tử” lại có những hành động xấu xa, bộc phát khát vọng tự do, bình đẳng của con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Nhà thơ Hồ Xuân Hương có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu hài hòa, độc đáo trong mỗi ý, giúp người đọc dễ mường tượng.
Nhà thơ Hồ Xuân Hương với phong cách trào lộng, thể hiện cá tính mạnh mẽ nhưng vẫn sâu lắng, hiu quạnh.
Ngày 23/11/2021, UNESCO quyết định vinh danh Hồ Xuân Hương là danh nhân văn hóa thế giới. Thế giới xếp hạnh bà là nhà thơ nổi tiếng thứ 1607 và đứng thứ 2 trong danh sách nhà thờ nữ nổi tiếng trên thế giới.
Danh nhân thế giới Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Nguyễn Đình Chiểu (1822-19888), tục là Đồ Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu trọng Phú, Hối Trái, ông là một nhà thơ lớn ở vùng Nam Kỳ vào thời Pháp thuộc. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, quê gốc tại Thừa Thiên Huế, khi vào công vụ ở Gia Định lấy vợ hai là bà Trương Thị Khiết, sinh 7 người con, con đầu là Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài, 4 năm sau ra Huế chờ thi. Năm 1848, mẹ của ông mất ở Gia Định, phải bỏ học đi bộ về chịu tang mẹ. Vì thương mẹ, khóc nhiều, đến Quảng Nam, ông ốm nặng, mù mắt vào chữa bệnh ở một thầy thuốc dòng dõi Ngự y. Thời gian đó, ông được học và làm nghề thuốc. Khi về Gia Định chịu tang mẹ, bị hôn thê bội ước, nhà cửa sa sút. Năm 1851, ông mở trường dạy học và làm nghề bốc thuốc, đồng thời sáng tác thơ văn.
Năm 1861, các nghĩa sĩ nông dân tập kích phá đồn thực dân Pháp ở Cần Giuộc, có 15 nghĩa sĩ hy sinh. Ông viết bài Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và đọc tại buổi truy điệu. Năm 1862, ba tỉnh Đông Nam Bộ thất thủy, Nguyễn Đình Chiểu vào Bến Tre làm nghề thuốc, dạy học và làm thơ. Vào năm 1864, thủ lĩnh Trương Định bị thương rồi tiễn xuất, ông viết bài văn tế Trương Định và 12 bài thơ liên hoàn.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu rất đồ sộ. Các tác phẩm nổi tiếng của ông như Lục Vân Tiên, truyện thơ Dương Tử - Hà Mậu, các cuốn sách dạy làm thuốc, diễn ca, văn tế,...
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ tiết tháo, chính nghĩa, đạo hiếu, đề cao phẩm cách thanh cao, các tác phẩm của ông phần lớn đề cao Nho giáo, gắn chặt với vận mệnh đất nước, khởi đầu thời đại văn chương sử thi mới.
Ngày 23/11/2021. UNESCO công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới cùng nhà thơ Hồ Xuân Hương.
Việc tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân văn hóa không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá khứ mà còn giúp chúng ta trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa quý báu này để góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh.